Tài liệu bồi dưỡng Học sinh giỏi Ngữ văn Lớp 9 - Lý Luận văn học
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu bồi dưỡng Học sinh giỏi Ngữ văn Lớp 9 - Lý Luận văn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- tai_lieu_boi_duong_hoc_sinh_gioi_ngu_van_lop_9_ly_luan_van_h.docx
Nội dung text: Tài liệu bồi dưỡng Học sinh giỏi Ngữ văn Lớp 9 - Lý Luận văn học
- Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi văn – Lý luận văn học Tác phẩm tự sự không chỉ phản ánh cái phần tồn tại vật chất với các việc làm, hành động của con người. Nó cũng phản ánh thế giới bên trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ của con người nữa” (Theo Lí luận văn học – Phương Lựu (chủ biên) NXB GD năm 2000) Em hiểu ý kiến trên như thế nào? BÀI HS PHAN THU HIỀN Mỗi thể loại văn học có một đặc trưng riêng của nó. Mặc dù cùng biểu hiện tư tưởng, tình cảm, nhưng tác phẩm trữ tình lại khác với tác phẩm tự sự. Nếu ở tác phẩm trữ tình, thế giới chủ quan của con người, tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩa được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu thì tác phẩm tự sự phản ánh đời sống con người qua tính khách quan của nó thông qua nhân vật cụ thể được miêu tả cả bên trong lẫn bên ngoài. Vì vậy, có thể nhận xét một điều là: “tác phẩm tự sự không chỉ phản ánh cái phần tồn tại vật chất với các việc làm, hành động của con người. Nó cũng phản ánh thế giới bên trong bao gồm tam trạng, cảm xúc, ý nghĩ của con người nữa”. Tác phẩm văn học nói chung là một loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu sáng tác, là một phương thức để con người nhận thức, khám phá thế giới, trong đó nó đặc biệt quan tâm tới thế giới của con người với tất cả sự phong phú, tinh vi, đa dạng không bao giờ khám phá hết được. Văn học tồn tại dưới hình thức những tác phẩm cụ thể, tùy thuộc vào tính chất và phương thức biểu hiện mà người ta phân chia tác phẩm văn học ra những thể loại riêng, trong đó có tác phẩm tự sự. Tác phẩm tự sự được xây dựng nên từ nhiều yếu tố, mà nhân vật là yếu tố trung tâm của thể loại này. Xây dựng nhân vật là công việc quan trọng hàng đầu của nhà văn. Tên tuổi của nhà văn thường được gắn liền với tên tuổi của những nhân vật điển hình trong tác phẩm của họ. Nói đến Vũ Trọng Phụng là ta nhớ đến Xuân tóc đỏ, nói đến Nam Cao, ta lập tức liên tưởng đến Chí Phèo, bá Kiến, Lão hạc Những nhân vật như thế đã gây cho người đọc cảm tưởng đó là những con người thật, thậm chí còn thật hơn cả những con người thật đang có mặt ngoài đời. Chúng không còn là những nhân vật trong sách mà chính là những con người bằng xươngbawngf thịt từ tác phẩm bước ra ngoài đời, sống như những con người đang sống xung quanh ta. Người đọc sau khi gấp sách lại vẫn còn thấy nhân vật đsng có mặt đâu đó, tiếp tục cuộc sống ngoài đời của chúng. Nhân vật văn học là sản phẩm của trí tưởng tượng , sáng tạo của nhà văn. Người đọc sở dĩ nhận ra được nhân vật là do nhân vật thường có tên, lai lịch, ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, ý chí, cảm xúc Các yếu tố này được thể hiện bằng nhiều chi tiết cụ thể, sinh động, gợi cảm. Do đó, nhà văn khi xây dựng nhân vật tập trung vào 2 phần chính, đó là “cái phần tồn tại vật chất với các việc làm, hành động” và “thế giới bên trong bao
- gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ của con người”. Cái phần tồn tại vật chất bên ngoài ấy có thể hiểu là những thứ được biểu hiện ra bên ngoài nhân vật, mà trong đó, hành động là yếu tố rõ nét hơn cả. Hành động của nhân vật là những việc làm bộc lộ tính cách hay đánh dấu sự thay đổi về tính cách của nhân vật. Đối với Chí Phèo, đó là hành động chửi bới, đập đầu, rạch mặt ăn vạ, đó là những biểu hiện bên ngoài của một kẻ tha hóa về đạo đức, đang rơi vào tình thế bi kịch không lối thoát. Đó còn là hành động ngăn cản mối tình chớm nở của người bà cô Thị Nở. Thông qua đó, nhà văn giúp người đọc hiểu rõ hơn về hình ảnh của một bà cô già góa chồng với đầu óc, tư tưởng mê muội, cổ hủ, với những lễ giáo phong kiến ngặt nghèo. Hay để nói cô Tấm hiền lành, chăm chỉ, người ta kể cô chăm bắt tép trong khi Cám vẫn mải bắt bướm, hái hoa Từ những hành động, những việc làm cụ thể đó, người đọc phần nào đã hình dung được bản chất, tính cách nhân vật mà nhà văn đã xây dựng trong tác phẩm của mình. Nhân vật tự sự được khắc họa một cách khá đầy đặn, nhiều mặt và toàn diện hơn các nhân vật trữ tình và kịch là do tác phẩm tự sự không bị hạn chế về không gian và thời gian, nó có thể kể về những miền đất khác nhau, có thể lùi về dĩ vãng, kể lại những sự kiện đã xảy ra hàng bao thế hệ, hàng chục, hàng trăm năm trôi qua. Do vậy, nhân vật tự sự được miêu tả một cách toàn diện, không chỉ phần bên ngoài mà còn cả những điều không thể nói ra, những ý nghĩ, tình cảm, cảm xúc thầm kín, mong manh nhất. Nội tâm nhân vật cũng là một thế giới sinh động và phong phú hơn cả. Đó là thế giới riêng của tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ, đặc biệt là những thay đổi trong ý thức, thái độ sống và tâm lí nhân vật qua các giai đoạn. Thông qua những cảm xúc mong manh đó, nhà văn bộc lộ quan điểm cuộc sống và quan điểm nghệ thuật của bản thân. Đó có thể là tâm trạng háo hức đời đoàn tàu đêm từ Hà Nội đi qua cảu hai chị em Liên và An trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Thông qua đó, nhà văn thể hiện niềm xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh không bao giờ biết được ánh sáng và hạnh phúc. Qua đó, tác giả đồng thời cũng muốn thức tỉnh tâm hồn uể oải đang lụi tắt ngọn lửa lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát được thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ. Hay đó cũng có thể là tâm trạng của Chí Phèo vào buổi sáng hôm sau khi đã tỉnh rượu, hắn bắt đầu có những cảm xúc của một con người, lần đầu tiên sau khi ra tù, Chí biết xúc động trước những âm thanh bình dị của đời thường. Chí nhớ về quá khứ, liên tưởng đến hiện tại và lo cho tương lai sau này. Chính những cảm xúc, những suy nghĩ đó đã cho thấy Chí Phèo đã được thức tỉnh và mong muốn được sống của một con người bình thường. Từ đây, nhà văn Nam Cao muốn khẳng định phẩm chất tốt đẹp và bản chất lương thiện của con người ngay cả khi họ đã bị vùi dập, mất đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Nhà văn khi xây dựng nhân vật nhằm mục đích thể hiện sâu sắc chủ đề của tác phẩm cũng như thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Bên cạnh việc tạo dựng hình tượng nhân vật thông qua các hành động, việc làm cụ thể hay thế giới nội tâm tinh thần phong phú, nhà văn còn miêu tả, xây dựng thêm nhiều yếu tố khác như ngoại hình, ngôn ngữ, mối quan hệ của nhân vật để làm
- cho các hình tượng trong tác phẩm thêm màu sắc và sinh động hơn. Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật được nhà văn miêu tả trực tiếp trong tác phẩm, nhằm biểu hiện một phần tính cách, tâm hồn và số phận của nhân vật. Một Chí Phèo với cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen lại rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy Thoạt nhìn vẻ bề ngoài đó, người đọc đích thị sẽ nhận xét đó là một kẻ côn đồ hung hãn chỉ biết gây gỗ, đâm chém, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Hay là hình ảnh một người đàn bà hàng chài xấu xí đã ngoài bốn mươi, “người cao lớn với những đường nét thô kệch”, “ khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Đó là diện mạo của một người phụ nữ lam lũ, nhọc nhằn vì phải mưu sinh trên biển cả, sống nghèo đói trên chiếc thuyền với đàn con đông đúc và một ông chồng cục tính, thường xuyên đánh đạp vợ con. Chỉ với một số những đường nét phác họa bên ngoài mà đã làm cho hình tượng nhân vật dần rõ ràng và nổi bật hơn trong con mắt của bạn đọc. Trong số những yếu tố tạo nên một tác phẩm tự sự, thì ngôn ngữ là một yếu tố quyết định đến sự thành công của tác phẩm, nhất là thể loại truyện. Nó là phương thức cơ bản để nhà văn bộc lộ chủ đề, tư tưởng tác phẩm, để nổi bật lên tính cách của nhân vật và thuyết phục người đọc đồng tình với mình về cách đánh giá đối với những hiện tượng và con người được miêu tả. Như Go-rơ-ki đã từng nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Nam Cao khi mở đầu truyện ngắn “Chí Phèo” đã đưa vào tiếng chửi đời, chửi trời và chửi người của nhân vật Chí Phèo để giúp người đọc tiếp xúc trực tiếp với nhân vật. Thông qua tiếng chửi ấy, chân dung của Chí Pheif được hiện lên một cách chân thực, là một kẻ có tâm hồn dị hợm, méo mó, một nạn nhân đau khổ mang trong mình nỗi cô đơn, trống rỗng, tuyệt vọng, bị cự tuyệt quyền làm người. Sức nặng của ngôn ngữ là yếu tố chính để tạo nên sức ám ảnh của nhân vật trong lòng người đọc. Nhà văn xây dựng nhân vật của mình trong các mối quan hệ của nó, mối quan hẹ giữa nhân vật với nhân vật như của Chí Phèo với Bá Kiến, của chị Dậu và cụ Nghị hay của 2 chị em Liên và An với mẹ con chị Tý Bên cạnh đó, còn có mối quan hệ giữa nhân vật với hoàn cảnh sống, như Chí Phèo, thị Nở với hoàn cảnh xã hội của làng Vũ Đại, một xã hội thực dân nửa phong kiến với những lễ giáo phong kiến lạc hậu, một xã hội đã đẩy con người vào tình trạng túng quẫn, bần cùng và lưu manh hóa. Đặt nhân vật trong các mối quan hệ của nó, nhà văn muốn thông qua đó để tô đậm hơn bức chân dung của nhân vật và làm sáng rõ chủ đề của tác phẩm. Nhân vật là yếu tố trung tâm trong tác phẩm tự sự, thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Để làm cho hình tượng nhân vật nổi bật và sống động, nhà văn luôn có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố bên ngoài với nội tâm bên trong của nhân vật. Đây là hai nhân tố có tính chất thống nhất hữu cơ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau đê góp phần hoàn thiện nhân vật và thể hiện nội dung của tác phẩm. Bằng chứng là khi xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân không chỉ miêu tả vẻ hiên ngang, khí phách bên ngoài nhân vật mà còn giới thiệu đó là
- một con người tài hoa, viết chữ đẹp, có cái tâm cao cả, một thiên lương trong sáng. Chính sự kết hợp giữa hành động, dáng vẻ bề ngoài với cốt cách tâm hồn cao đẹp bên trong đã đưa Huấn Cao trở thành một nhân vật lí tưởng, tỏa sáng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Tuy nhiên, mỗi nhà văn lại có một cá tính sáng tạo khác nhau. Họ không bao giờ lặp lại chính mình hay lặp lại người khác. Tùy vào từng tác phẩm cụ thể, vào dụng ý nghệ thuật mà nhà văn có những cách kết hợp giữa yếu tố bên ngoài và bên trong khác nhau. Nếu trong “Hai đứa trẻ”, nhà văn Thạch Lam nghiêng về yếu tố nội tâm của hai nhân vật Liên và An để phát hiện và nâng niu những ước mơ đổi thay cuộc sống, thì trong tiểu thuyết “Số đỏ”, nhà văn Vũ Trọng Phụng chủ yếu xây dựng hình ảnh Xuân tóc đỏ thông qua dáng vẻ bề ngoài của một tên ma cà bông đầu đường xợ chợ lố lăng, dị hợm, chuyên gia dối trá, bịp bợm. Từ đó để nhà văn mở rộng ra bản chất của xã hội cũ – một xã hội “chó đểu”, Tây Tàu nhố nhăng, trắng đen lẫn lộn Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần mà mỗi nhà văn đã cất công ấp ủ, thai nghén bao ngày để cho ra đời, là hình thức phản ánh con người và hiện thực đời sống xuất phát từ cảm xúc huyết mạch và lí tưởng của tác giả. Thông qua nhân vật trong tác phẩm, nhà văn gửi gắm vào trong đó tư tưởng, tình cảm cũng như quan niệm của mình về con người, cuộc sống và xã hội. Chẳng hạn Chí Phèo là hiện thân cho một kiếp người lương thiện bị chà đạp, làm biến dạng cả về nhân hình lẫn nhân tính. Số phận bi kịch của Chí là lời tố cáo, lên án xã hội áp bức, phi nhân tính đã chà đạp lên con người, đẩy con người vào bước đường cùng, đồng thời thể hiện lòng yêu thương của nhà văn đối với những nạn nhân trong xã hội đó. Đây chính là nội dung tư tưởng mà Nam Cao có dụng ý gửi gắm vào khi xây dựng nên hình ảnh nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của mình. Tác phẩm tự sự là một chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt nội dung và hình thức, mà trong đó nhân vật là yếu tố trung tâm và quan trong hàng đầu. Để khắc họa thành công một nhân vật tự sự, nhà văn luôn phải có sự kết hợp hài hòa, thống nhất giữa yếu tố vật chất tồn tại bên ngoài và thế giới nội tâm, tinh thần phong phú bên trong của nhân vật. Nhờ sự hớp kệp khéo léo và tài tình đó mà yếu tố nhân vật trong tác phẩm tự sự luôn được nổi bật, tỏa sáng và ghi dấu sâu sắc trong lòng người đọc.
- Đề bài 2: “Làm thơ là cân một phần nghìn 0milligram quặng chữ” (Mai-a-cop-ki). Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào. Chứng minh qua một số bài thơ anh chị đã học hoặc đọc thêm. Bài làm Thơ ca chính là sự kết tinh giữa chữ tình và cái tài của thi nhân. Tình chính là tâm sơ còn cái tài lại là cái cách biểu đạt qua từng con chữ. Để có thể chạm vào vào trái tim người đọc thì mỗi tác phẩm không chỉ mang theo tâm tình, nỗi lòng, tình yêu của tác giả mà nó còn là sự chắt lọc, trau chuốt trên từng vần thơ, câu chữ. Nhà thơ vỹ đại của văn học Xô Viết Mai-a-cop- ki từng cho rằng “Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ”. Câu nói ấy là bàn về trách nhiệm của người làm thơ và đặc điểm của ngôn từ, bởi thơ ca cũng như văn chương nói chung đều bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực và được xây dựng bằng vật liệu ngôn từ. Người nghệ sĩ luôn phải dùng tài nghệ của chính mình để biến ngôn ngữ đời thường thành ngôn ngữ văn học, để có thể tạo nên những câu thơ không chỉ đẹp riêng về ngôn ngữ mà còn đẹp về cả ý tứ câu thơ. Trong văn học, ngôn ngữ luôn là yếu tố đầu tiên, nó giống như màu sắc trong hội họa, âm thanh trong âm nhạc. Để tạo nên một tác phẩm độc đáo cần các nhà thơ cần trải qua quá trình lao động nhọc nhằn, như người đào vàng, tìm ngọc, đãi từ kho quặng chữ thô ráp mơi có thể lấy ra một viên ngọc chữ nghĩa tinh khôi. Nhiều khi khát cháy trên sa mạc ngôn từ vẫn chưa tìm được thứ báu vật thiêng liêng ấy. Bởi thơ không chỉ có nghĩa mà chủ yếu là tình, là hồn, là những khái niệm ai cũng biết nhưng để lý giải, khai thác một cách triệt để là vô cùng khó. Trong thơ có hơi thở, có hồn, có trái tim, có sự chiêm nhiệm, từng trải mà thấm nhuần. Sẽ rất khó để có thể đạt tới sự thấu tỏ tuyệt đối về cảm xúc và ý tứ, về những lung linh của con chữ, về tiết tấu nhịp điệu mang dấu ấn văn hóa, lịch sử, phong tục, thói quen. Trong sự lao động của nhà thơ luôn có sự lao động về ngôn ngữ, trong sự giày vò của sáng tạo nghệ thuật luôn có sự giày vò về ngôn từ. Thành công của một tác phẩm phần lớn là nhờ khả năng ngôn ngữ, sự trau chuốt tỉ mỉ về câu từ của tác giả; viết sao cho hay, viết sao cho đúng mà vẫn giữ được nét đẹp ngôn từ luôn là phương châm sáng tạo của người viết.Trách nhiệm của các văn nghệ sỹ trước thời đại và cuộc sống là phải thấu hiểu con người. Tài năng của người nghệ sỹ trước hết là cách sử dụng ngôn từ. Mà ngôn ngữ thơ chính là ngôn từ, câu chữ được người nghệ sĩ mã hóa, chắt lọc từ đời sống, tạo nên tinh hoa nghệ thuật đặc sắc. Việc lựa chọn từ ngữ đòi hỏi người nghệ sĩ tốn rất nhiều công sức để tìm cho ra được những từ ngữ có khả năng biểu đạt cao nhất ý muốn diễn tả. Ngôn ngữ văn học phải chính xác và tinh luyện, tạo nên hình tượng trong tác phẩm. Chính vì thế, nó không trừu tượng mà có tính chất cảm tính cụ thể, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc thông qua việc biểu đạt suy nghĩ tính cách nhân vật hay thái độ và quan niệm của tác giả. Ngôn từ không phải chỉ để diễn
- đạt một hành động, sự việc đang được nói đến, mà còn nói thêm nhiều điều sắp xảy ra. Có khi, ngôn từ là một lá thư, một lời nhắn nhủ, một lời tâm sự của tác giả về đời, về người, về thời đại. Mặt khác, ngôn từ còn thể hiện phong cách hành văn, phong cách nghệ thuật của người viết, hay còn thể hiện khả năng sáng tạo của người cầm bút. Chính vì vậy, vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ luôn giữ vai trò quyết định nên vẻ đẹp cho tác phẩm. Với “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu mỗi từ ngữ, chất liệu làm nên hình thức, vỏ bọc bên ngoài luôn được ông trau chuốt, mài giũa; đồng thời tình cảm, tư tưởng về con người, thiên nhiên cũng được ông bộc lộ đầy đủ, chân thực và sâu sắc qua tác phẩm của mình. Trong kiệt tác Vội vàng, từng câu, từng chữ đều chở nặng ý vị tuyên ngôn, mang đậm tư tưởng mới mẻ và tràn đầy chất Xuân Diệu. Mở đầu bài thơ, thể ngũ ngôn truyền thống đã làm bật lên cái khát khao sống mãnh liệt, điên cuồng của thi sĩ: “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi” Thật kì lạ, thi vị biết bao! Cái ước muốn, khát khao của Xuân Diệu là những ước muốn hết sức phi lý, ngông cuồng: tước đoạt quyền của tạo hóa, cưỡng lại quy luật tự nhiên. Không phải vì ghét mùa xuân, cũng chẳng bởi ghét “màu nắng” hay “hương gió” mà là nhà thơ muốn “tắt, buộc” tất cả. Đơn giản chỉ vì ông khát khao giữ cho vẻ đẹp mãi mãi lên hương, tỏa sắc giữa cuộc đời, bất tử hóa cái đẹp của vạn vật thiên nhiên. Mong muốn ấy càng trở nên tha thiết hơn bao giờ hết bởi nhà thơ sử dụng liên tiếp hai chữ ‘đừng” chứa đựng một nguyện vọng sâu sắc. Có lẽ vì quá đỗi say mê, ham sống đến tột cùng, đến vô biên mà thi nhân trở nên tham lam, ích kỷ, muốn giữ lại vẻ dẹp, sự sống của tạo vật cho riêng mình. Thế nên mới có cảm giác âu lo, sợ hãi, nuối tiếc thể hiện trong từng câu chữ. Với cách sử dụng từ có chọn lựa tỉ mỉ, đọc lên câu thơ của Xuân Diệu ta không hề nhìn thấy sự thô kệch của lòng tham mà dường như ta nhận ra được ước muốn táo bạo của tác giả dù nó đi ngược với quy luật đất trời. Nhắc tới ngôn từ, phải kể đến Nguyễn Du “Bậc thầy về ngôn từ”, đến với đoạn “Chị em Thúy Kiều”, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của chủ thể trữ tình mà còn thấy được cách sử dụng ngôn từ tài tình của tác giả: “Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn: Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
- Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một tài đành họa hai.” Ví như hai từ “đầy đặn, nở nang” trong câu thơ “Khuôn trăng đầy đặn/ Nét ngài nở nang” khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân, hai từ đó không chỉ đơn thuần là miêu tả khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn phúc hậu như vầng trăng cũng như cả nét ngài uốn cong thanh tú của nàng Vân mà đó còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận, của cuộc đời nàng. Với miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái.Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng lại tạo nên sự hoà hợp, êm dịu: “ mây thua, tuyết nhường”. Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm đạm. Còn với Kiều, Nguyễn Du đã dùng vẻ đẹp của Thúy Vân để bẫy vẻ đẹp của Kiều. Tài liệu của thầy Phan Danh Hiếu. Nhiều thi liệu cổ đã được huy động để khắc họa chân dung tuyệt mỹ của giai nhân:” Làn thu thủy, nét xuân sơn,hoa ghen,liễu hờn ” Với bút pháp ước lệ ,lí tường hóa,Kiều hiện ra trong mắt người đọc bằng hình ảnh của một thiếu nữ có đôi mắt long lanh,bình lặng; nét mày thanh tú như dáng núi mùa xuân.Thật là một dung nhan sắc sảo mặn mà,vừa có duyên lại vừa có hồn. Nhưng vẻ đẹp ấy lại đẹp đến độ sắc nước hương trời, chim sa cá lặn, nghiêng nước nghiêng thành khiến cho hoa ghen liễu hờn Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Kiều là chân dung mang tính cách số phận, cuộc đời nàng sẽ có nhiều khổ đau, trắc trở. Là một nghệ sĩ về ngôn từ, Nguyễn Du không sử dụng thi liệu cổ một cách máy móc, rập khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn. Nhà thơ đã tạo nên những từ ngữ rất riêng, rất Nguyễn Du nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc, đi vào hàng triệu trái tim. Với con người, ánh sáng là những gì tốt đẹp nhất, soi rọi tâm hồn con người và thay đổi nó. Còn với Tố Hữu, ánh sáng chính là lí tưởng cách mạng – “ánh sáng” đã giúp ông tìm ra lối đi cho mình: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim.” Khổ đầu tiên ca ngợi lí tưởng và nói lên tình yêu với lí tưởng cách mạng. Tác giả khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng tỉnh, bừng sáng tâm hồn và trí tuệ nhà thơ. “Bừng” – ánh sáng phát ra đột ngột, ánh sáng của ngày hè đầy nồng nàn và rạng rỡ. Hình ảnh “mặt trời chân lí chói qua tim” là một hình ảnh độc đáo, bất ngờ, táo bạo, giàu ý nghĩa thẩm mĩ mà rất chính xác, gợi cảm. Mặt trời là nguồn sáng rực rỡ, chói chang và duy nhất đem lại sự sống cho muôn loài. Hình ảnh “mặt trời chân lí” đi liền với nhóm từ “chói qua tim” đã diễn rả được niềm vui rất đỗi thiêng liêng và sức xuyên thấu kì diệu, mạnh mẽ của lí tưởng Đảng đối với tình cảm, nhận thức của người chiến sĩ. Hai động từ mạnh “bừng” và “chói” gây ấn tượng
- đến thị giác độc giả. Nghe có gì đó đến rất đột ngột, nhưng cũng đến rất phô trương, rất mãnh liệt khiến người ta không thể kháng cự. Như một sức mạnh vô hình đang lao đến, Tố Hữu khiến lí tưởng cách mạng trở nên to lớn, mang tầm vóc vĩ đại, bừng sáng chói chang. Trong khi đó, Nguyễn Duy lại xem ánh sáng của vầng trăng – tức ánh trăng, là người bạn tri kỉ, nghĩa tình, cũng vừa là một quan tòa phê phán, lên án sự bội bạc của nhân vật trữ tình: “ Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình” Ánh trăng trước sau vẫn vậy, dân dã, mộc mạc, bình dị và thủy chung. Trăng lặng lẽ tròn một cách trong sáng vô tư, mặc cho thời gian trôi, không gian biến đổi, mặc cho bạn bè xưa ai đó quay lưng. Nhưng đó là chất thử, chất xúc tác, khơi gọi niềm xúc động, tạo sự sám hối, đánh thức lương tâm ở con người. Cái giật mình được diễn tả trong đoạn thơ thể hiện sự bừng tỉnh đáng quý, cần có để làm người, lại vừa là từ rất đắc, cô đọng suốt cả bài thơ. Giật mình vì nhận ra trước đây mình đã quá vô tình, giật mình vì nhận ra trăng vẫn im lặng và bao dung như thế, giật mình vì ăn năn hối hận đã quên nghĩa thủy chung, Giờ đây, con người đã tìm được con đường trở về với chính con người mình trước đây, đã tìm lại được những tháng ngày tình nghĩa đã vô tình quên lãng. Qua bốn bài thơ “Vội vàng”, “Truyện Kiều”, “Từ ấy” và “Ánh trăng”, ta thấy được giá trị ngôn ngữ của bài thơ, đồng thời cảm nhận được sức lay động và rung động mãnh liệt, quảng đại của ngôn từ. “Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ.”(Mayakovsky) Ngôn ngữ thơ ca phải tinh luyện nhưng cần sáng tạo đẻ có thể tạo dấu ấn riêng. Ngôn ngữ ấy cũng phải hàm súc, căn cứ vào chủ thể trữ tình để miêu tả nhưng cũng không thể khô khan.Công việc sáng tác là một quá trình gian khổ, vất vả nhưng cũng rất đáng quý. Tài liệu của thầy Phan Danh Hiếu. Từ xa xưa, những lời hát trong bài ca lao động của người nguyên thuỷ, những lời cầu nguyện, mong ước điều tốt lành cho mùa màng đến những lời niệm chú có thể coi như hình thức đầu tiên của thơ. Trải qua thời gian, vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca ngày càng phát triển và hoàn thiện tựa như những nguồn nước mát trong nảy sinh từ cội nguồn sáng tạo sâu thẳm vô tận. Chính vì vậy, ngôn ngữ thơ ca không phải là vẻ đẹp của đồ trang sức hay trò chơi phù phiếm, mà là vẻ đẹp tỏa ra từ tâm hồn và ánh lên từ cuộc sống, thông qua sự mài dũa và tinh luyện của nhà thơ. Nhà thơ không ngừng sáng tạo, gọt giũa, nhào luyện để tạo nên giá trị về nghệ thuật ngôn từ tạo nên ngôn ngữ để sáng tạo thơ ca. Ngôn ngữ thơ ca phải tinh luyện, mới mang được dấu ấn sáng tạo riêng của người nghệ sĩ.
- Đề 3: Nhà thơ Xuân Diệu cho rằng: “Một bài thơ hay là hay ở tình ý, hay ở chữ tiếng, hay ở sự việc, hay ở nhạc điệu”. Còn nhà văn Nguyễn Tuân lại cho rằng: Thơ là mở ra được một cái gì đó mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó vẫn như là bị phong kín. Anh (chị) hiểu hai ý kiến trên như thế nào? Hãy làm rõ cách hiểu của mình qua một vài bài thơ Mới đã học, đã đọc. DÀN Ý I. MỞ BÀI: dẫn dắt vấn đề lý luận thơ và đưa vào hai ý kiến của Xuân Diệu và Nguyễn Tuân. II. THÂN BÀI 1. Giải thích ý kiến: – Ý kiến thứ nhất: “Một bài thơ hay là hay ở tình ý, hay ở chữ tiếng, hay ở sự việc, hay ở nhạc điệu”. + Hay của thơ trước hết là hay ở tình cảm con người (tình ý), là sự rung động của trái tim trước sự việc. + Hay của thơ là hay ở cách dùng từ, nhãn tự, hay ở tiếng. Bởi vậy lựa chọn ngôn ngữ, “quặng chữ” cho thơ là rất quan trọng. + Cuối cùng hay của thơ là hay ở nhạc điệu, tính nhạc, âm điệu của thơ. => Thực chất ý kiến này bàn về ba góc độ của thơ hay: tình ý – ngôn từ – nhạc điệu. – Ý kiến thứ hai: “Thơ là mở ra được một cái gì đó mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó vẫn như là bị phong kín.” + Thơ ca là thế giới của tâm hồn. Tâm hồn lại là thứ riêng tư, khép kín – “phong kín”. Và chỉ có thơ ca mới có sức gợi mở vô cùng, để khơi dậy điều “phong kín” ấy, mang đến điều mới mẻ độc đáo. =>Thực chất ý kiến này bàn về khả năng khơi dậy của Thơ. 2. Chứng minh hai ý kiến 2.1. “Một bài thơ hay là hay ở tình ý, hay ở chữ tiếng, hay ở sự việc, hay ở nhạc điệu” – Đây là một định nghĩa về thơ hay của Xuân Diệu. – Thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua cách tổ chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm (dẫn chứng) – Câu thơ hay bao giờ cũng là câu thơ giàu sức gợi. Gợi ý và gợi tình. Đọc thơ hay, người ta thấy được cả sự rung động của thi sĩ. (dẫn chứng) – Từ ngữ trong thơ vô cùng quan trọng vì nó là linh hồn của câu thơ, bài thơ. Trong quan niệm của thơ Đường thì từ ngữ là “nhãn tự”, trong quan niệm hiện đại, Mai-a-cop-ki cho rằng đó là “quặng chữ” và “Làm thơ là cân một phần nghìn miligram quặng chữ”. (dẫn chứng) Tài Liệu Thầy Phan Danh Hiếu
- – Nhạc điệu trong thơ cũng rất quan trọng vì nó tạo nên giai điệu cho bài thơ. Bởi vậy, nhiều nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những hình thức nghệ thuật để tạo nên giai điệu cho riêng mình. Lâu dần, giai điệu quen thuộc sẽ thành phong cách của nhà thơ. (dẫn chứng) 2.2. Bàn về sự độc đáo của thơ, Nguyễn Tuân nhấn mạnh: “Thơ là mở ra được một cái gì đó mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó vẫn như là bị phong kín” – Thơ là tiếng nói về thế giới tâm hồn đầy riêng tư, bí mật của con người. Cảm xúc trong thơ là cảm xúc riêng, nỗi niềm riêng, mà nếu nhà thơ không giãi bày thì mãi mãi là một vương quốc bí mật. – Vì cuộc sống được thể hiện trong thơ là cuộc sống được phản chiếu qua thế giới cảm xúc của nhà thơ, in đậm một cách nhìn, một cách cảm mới mẻ, độc đáo. (Dẫn chứng) – Cảm xúc trong thơ bao giờ cũng tìm đến với một cách thể hiện tương ứng đầy sáng tạo, không lặp lại. (Dẫn chứng) 3. Bàn luận Cả hai ý kiến đều bàn về thơ, một ý kiến bàn về thơ hay, một ý kiến bàn về sự độc đáo của thơ và thế giới cảm xúc. Tuy hai ý kiến bàn về hai lĩnh vực khác nhau của thơ nhưng đều góp phần làm nổi bật cái hay, cái đẹp của thơ. III. KẾT BÀI Đề 4: Lời Tựa tập thơ Trung Hoa Cổ kim hoàn ca tập viết: Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ. Anh (chị) nghĩ thế nào về ý kiến này. BÀI LÀM Chenier đã từng nói: “Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái tim mới là thi sĩ”. Một bài thơ có giá trị, ấy là khi nó bao quát và thể hiện được tư tưởng cảm xúc của người nghệ sĩ, ấy là khi nó viết lên bằng những dòng thơ, những câu thơ chân thành, sâu lắng, tất cả đều bắt nguồn từ thẳm sâu trái tim người viết. Trong bài tựa của tập thơ cổ Trung Hoa Cổ kim hoàn ca tập ta như hiểu thêm giá trị của thơ ca Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ Như khúc hát của cảm xúc cất lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử. Thơ là biểu hiện của những tình cảm sâu sắc, là ước mơ cao đẹp mà con người luôn muốn vươn tới, là nghệ thuật bên trong của tâm hồn, là sự bùng cháy của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự bột phát của những tình cảm mãnh liệt. Ta tìm đến một bài thơ có khi vì ta yêu lối thể hiện của người nghệ sĩ, và có khi ta cũng đồng cảm với họ trong giây phút lắng lòng ẩn sâu trong từng lời thơ con chữ. “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Là một thể loại nằm trong phương thức trữ tình, thơ tác động đến người đọc bằng khả năng, sức gợi sâu xa, bằng cảm xúc mãnh liệt, bằng sự rung động của hình thức, từ ngữ. Sức sống của thơ là ở giá trị tư tưởng, cũng như gốc rễ sâu xa của thể loại này là ở lòng
- người. Giá trị ấy quy định nội dung, sức sống của thơ, tạo ra sự đồng điệu giữa tâm hồn người viết và tâm hồn bạn đọc. Như một cây cổ thụ có sức sống lâu bền và gắn bó mật thiết với cuộc sống con người, thơ ca “nở hoa nơi từ ngữ.” Là kết tinh của những gì đẹp đẽ nhất, tinh tuý nhất, cảm xúc tư tưởng của người nghệ sĩ đã thăng hoa thành những vần thơ, lời thơ có giá trị. Rõ ràng, trong khi nội dung tư tưởng cũng như tâm hồn của thơ ca nghệ thuật được ví như rễ cây hút dinh dưỡng nơi lòng đất, là bộ phận quan trọng nhất nhưng lại ẩn mình kín đáo nhất, khó nhìn thấy và nắm bắt thì yếu tố từ ngữ hình thức lại được xem là kết tinh đẹp đẽ nhất, là thành quả của quá trình lao động sáng tạo không ngừng, là yếu tố quan trọng để ta cảm nhận vẻ đẹp của bài thơ. Khẳng định giá trị của thơ ca, nói lên đặc điểm của thể loại này cũng là khi người viết muốn đề cao giá trị nội dung và hình thức trong văn chương nghệ thuật. “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Trở về với những trang thơ trong phong trào thơ mới, ta không quên một tiếng thơ “rạo rực băn khoăn” – Xuân Diệu. Là người chịu ảnh hưởng rõ rệt của văn hoá phương Tây, Xuân Diệu đã đem vào làng thơ Việt Nam bấy giờ một hình thức một giọng điệu mới mẻ, với cách thể hiện hình ảnh rất Tây, nhưng ẩn chứa đằng sau đó vẫn là một tâm hồn thơ, cảm xúc thơ chân thành da diết. Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi! Người đọc như bị hút hồn, lôi cuốn bởi lối thơ dồn dập của Xuân Diệu, như được thả lòng mình đắm say chốn “thiên đường” nơi mặt đất, như cảm phục một lối thơ rất riêng của thi sĩ, với những sự vật, hình ảnh lãng mạn, tràn trề nhựa sống như được phơi bày lên trang thơ. Rõ ràng, hình thức thơ là sự kết tinh đẹp đẽ nhất, là thành quả lao động nghệ thuật không ngừng nghỉ của thi sĩ. Thế nhưng, xuất phát điểm sâu xa, điều làm nên giá trị, sức sống cho tác phẩm thơ Xuân Diệu lại khởi phát “từ lòng người” từ tâm hồn, từ tư tưởng của người viết. Thời gian trôi qua, Xuân Diệu với các tác phẩm của mình đã chứng tỏ được sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc. Điều gì đã làm nên giá trị của thơ ca, nếu không phải là tư tưởng cảm xúc, ý nghĩa sâu xa trong từng tác phẩm. Điều gì đã làm nên sức sống mãnh liệt ấy nếu không phải là một niềm khát khao sống, khát khao tình yêu, hạnh phúc đến vồ vập, đến mạnh mẽ. Hãy sát đôi đầu hãy kề đôi ngực Hãy trộn vào nhau đôi mái tóc ngắn dài